TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC

Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước

Bạn đánh giá: 1 / 5

Ngôi sao có hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực
 

Trong những năm qua, doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội; tuy vậy, vẫn chưa “đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp”. (1) Trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu phát triển kinh tế số, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3/6/2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII xác định mục tiêu đến năm 2030, doanh nghiệp nhà nước phải “đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp”.(2) Để hoàn thành mục tiêu này, cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước.

Công nhân Điện lực Trường Sa, Công ty Điện lực Ninh Thuận bảo trì thiết bị trên Nhà giàn DK1. Ảnh: Trần Duy Tình

Công nhân Điện lực Trường Sa, Công ty Điện lực Ninh Thuận bảo trì thiết bị trên Nhà giàn DK1. Ảnh: Trần Duy Tình

Thực trạng phát triển của doanh nghiệp nhà nước thời gian qua

Qua hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

Đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt phát triển trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới bảo đảm an ninh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, như trong các lĩnh vực về năng lượng, tài chính ngân hàng, viễn thông, sản xuất công nghiệp…

Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ quốc phòng - an ninh, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh và chủ quyền quốc gia. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, doanh nghiệp nhà nước đã chung tay cùng Chính phủ và nhân dân ứng phó với đại dịch.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến đầu năm 2021, mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,08% về số lượng nhưng doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Số thuế và các khoản phải nộp bình quân của doanh nghiệp nhà nước là 576 tỷ đồng, gấp 2 lần doanh nghiệp có vốn nhà nước, gấp 43 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 14 lần doanh nghiệp dân doanh(3).

Theo Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 10/2022, thực hiện thu ngân sách nhà nước đạt 130,3 nghìn tỷ đồng, lũy kế 10 tháng thu ngân sách nhà nước đạt 1.464,3 nghìn tỷ đồng, bằng 103,7% dự toán (ngân sách trung ương ước đạt 103,6% dự toán; ngân sách địa phương ước đạt 103,8% dự toán), tăng 16,2% so cùng kỳ năm 2021(4). Công tác quản lý nợ công ở Việt Nam được thực hiện chặt chẽ và đã đáp ứng được các mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn 2017 - 2021, nợ công của Việt Nam giảm mạnh, từ mức 61,4% GDP xuống còn 43,1% GDP.

Năm 2022, mức nợ công được dự tính tương đương với năm 2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể, nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn 39,1% GDP năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống 3,8% GDP năm 2021. Nợ chính quyền địa phương năm 2021 chỉ khoảng 0,6% GDP trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP(5).

Trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước đã giúp giảm bớt gánh nặng từ ngân sách nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước; góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 24, 6% so với tổng vốn đầu tư của Nhà nước và chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016 - 2020; trong đó, tổng vốn đầu tư đã thực hiện của 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) là 976.636 tỷ đồng(6). Vốn đầu tư nhà nước cũng góp phần đặc biệt quan trọng nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học…

Tuy nhiên, sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước đã và đang đặt ra không ít vấn đề, đặc biệt là hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Bên cạnh đó, năng lực quản lý, điều hành của một số cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, quyền chủ động của lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường còn nhiều bất cập...

Quá trình tái cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa như kỳ vọng, không chỉ ở việc sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp chưa đạt kế hoạch đề ra, mà còn do các doanh nghiệp nhà nước sau khi được sắp xếp lại, cổ phần hóa, chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chưa có sự đổi mới thực chất về quản trị kinh doanh, năng lực cạnh tranh còn yếu.

Những yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là do vấn đề nội tại của khu vực này. Chưa có sự thay đổi về mô hình quản trị là một trong các nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp hậu cổ phần hóa vẫn bấp bênh, không phát huy được vai trò của các nhà đầu tư.

Công tác cán bộ, chính sách tiền lương, thưởng của doanh nghiệp nhà nước chưa gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, chưa khuyến khích người lao động tăng năng suất. Thực tế, doanh nghiệp nhà nước Việt Nam chưa được bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo cơ chế thị trường. Bộ máy điều hành chưa được nâng cấp thông qua phương pháp quản trị hiện đại, nâng cao tính tự chủ để nâng cao năng lực cạnh tranh…

Hiệu quả sản xuất, kinh doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực nhà nước đầu tư; vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, hoạt động không hiệu quả. Một trong những nguyên nhân được xác định là do cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua chưa thực sự hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến các tập đoàn, tổng công ty về cơ bản chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế, nhưng thiếu các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực mới như sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, công nghệ cao, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, tăng trưởng xanh, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Công nghiệp 4.0)...

Để tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp là rất cần thiết.

Thực trạng quản trị doanh nghiệp nhà nước trước yêu cầu đáp ứng chuẩn mực quốc tế

Quản trị doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì và phát triển doanh nghiệp; tạo ra một cấu trúc, tổ chức doanh nghiệp hợp lý, phù hợp với đặc điểm, mục tiêu của công ty; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững, lâu dài. Mặc dù chưa có một mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước chuẩn mực cho mọi quốc gia, tuy nhiên, đã có thông lệ chung.

Bộ Hướng dẫn về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước của OECD năm 2015 yêu cầu phải tuân thủ các nguyên tắc: 1- Tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác; 2- Thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tập trung, chuyên trách, chuyên nghiệp, hiệu quả và theo cách thức can thiệp thông thường như các chủ sở hữu khác; 3- Hội đồng quản trị doanh nghiệp nhà nước phải có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở mức độ cao; 4- Những vấn đề khác: doanh nghiệp nhà nước phải đáp ứng tiêu chuẩn cao về công khai thông tin, kiểm toán, kế toán; đối xử bình đẳng và bảo đảm lợi ích của các bên có liên quan...

Tại Việt Nam, hiện nay, có khoảng gần 700 doanh nghiệp nhà nước, đóng góp hơn 29% GDP của đất nước, thu hút khoảng 0,7 triệu lao động (chiếm khoảng 7,3% lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp). Khung pháp lý đối với quản trị tại các doanh nghiệp được quy định trong pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về chứng khoán, pháp luật về kế toán, kiểm toán,… và các văn bản hướng dẫn, điều chỉnh chung cho các loại hình doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước. 

Có nhiều văn bản pháp luật, chế tài liên quan đến doanh nghiệp nhà nước và quản trị doanh nghiệp nhà nước được ban hành nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trong quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2020(7). Hệ thống hành lang pháp lý quy định các mặt hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã bảo đảm được sự nhất quán và thống nhất với chủ trương tạo lập khung khổ pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường(8)...

Việc doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân là tiền đề để áp dụng khung khổ quản trị doanh nghiệp hiện đại theo thông lệ quốc tế. Khung pháp lý về quản trị còn được quy định theo pháp luật chuyên ngành và pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, một số hướng dẫn nhằm tạo khung khổ để thực hiện quản trị cho khối các doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành, như bộ Quy tắc quản trị doanh nghiệp dành cho các công ty có vốn góp của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)… 

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ mục tiêu đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. Điều này khá tương đồng với thông lệ quốc tế về vai trò của doanh nghiệp nhà nước cũng như vai trò của vốn chủ sở hữu nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp. Việc áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại trong quản trị doanh nghiệp nhà nước giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, làm gia tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp trong ngắn hạn.

Để hỗ trợ áp dụng các phương thức quản trị hiện đại đối với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 704/QĐ-TTg, ngày 11/6/2012, phê duyệt “Đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường”. Việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (ngày 3/2/2018), thay mặt Chính phủ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty và các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đang góp phần thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp nhà nước.

Việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước ngày càng năng động, minh bạch, chuyên nghiệp và trách nhiệm hơn: đã phân định rõ hơn quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu, người đại diện phần vốn, kiểm soát viên; tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá của chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; nâng cao tính công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp... Sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể thị trường đã được giảm thiểu, nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp; thu hẹp ngành, lĩnh vực tham gia của Nhà nước; cơ cấu lại một số ngành độc quyền nhằm tăng cơ hội kinh doanh cho các thành phần kinh tế, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng...

Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ cổ đông khác tại doanh nghiệp nhà nước đa sở hữu đã tiến gần tới chuẩn mực quốc tế; cơ chế bảo đảm quyền của các bên lợi ích liên quan được quy định cụ thể hơn. Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán đã quy định rõ ràng hầu hết các nguyên tắc quan trọng về bảo vệ cổ đông khác tại doanh nghiệp nhà nước đa sở hữu theo Hướng dẫn về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước của OECD. Cơ chế và phương thức bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư ở Việt Nam theo tinh thần Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020 bước đầu đã có sự tương thích với thông lệ quốc tế và nguyên tắc về quản trị công ty của OECD; có sự bổ sung các quy định nhằm định hình cơ chế bảo vệ các quyền của cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số.

Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị doanh nghiệp nhà nước được quy định rõ ràng tại các văn bản pháp luật, trong đó có việc xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp; giám sát, chỉ đạo giám đốc hoặc tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của doanh nghiệp…

Quy định về công bố thông tin, chế độ kế toán và kiểm toán của doanh nghiệp nhà nước tiệm cận với thông lệ quốc tế. Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý và sử dụng vốn sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn quy định chi tiết về chế độ báo cáo, công bố thông tin của từng loại hình doanh nghiệp nhà nước…

Tuy nhiên, quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với chuẩn mực quốc tế. Chẳng hạn, về khung khổ quản trị, mặc dù đã hình thành pháp luật kinh doanh và cạnh tranh thống nhất, bình đẳng, nhưng việc thực thi chưa nghiêm và những ưu đãi trên thực tế cho doanh nghiệp nhà nước đang là rào cản để doanh nghiệp nhà nước đáp ứng chuẩn mực quản trị hiện đại, điển hình là việc không quyết liệt thực hiện thủ tục phá sản một số doanh nghiệp nhà nước trong tình trạng phải bị phá sản, việc hỗ trợ một số dự án thua lỗ không có dấu hiệu phục hồi(9)… Cùng với đó, quản trị doanh nghiệp chưa thực sự tốt làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, việc đổi mới quản trị doanh nghiệp triển khai chậm, chưa thực sự tiệm cận theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế.

Về thực hiện quyền sở hữu và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của hội đồng quản trị doanh nghiệp nhà nước: Hệ thống quy định đặc thù về quản lý doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp đa sở hữu, một mặt, làm giảm quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, mặt khác, làm cho kết cấu quản trị doanh nghiệp nhà nước trở nên phức tạp bởi các quyết định quản lý của doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc rất lớn vào cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước bên ngoài doanh nghiệp, kể cả đối với doanh nghiệp nhà nước là công ty cổ phần. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu, quản lý kinh tế Trung ương tại Hội thảo “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường”, ngày 29-1-2021, thực tế, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường đã được bảo đảm, nhưng chưa đầy đủ. Hệ thống thể chế, pháp luật đã được hoàn thiện nhằm bảo đảm doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc thị trường nhưng vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp nhà nước và bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước. So với thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong tạo lập khuôn khổ bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường tiệm cận với thông lệ quốc tế phổ biến, nhưng một số nội dung còn có khoảng cách khá xa.

Một số vấn đề khác, như về quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước, việc giao mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế hiện hành chủ yếu dưới hình thức phê duyệt kế hoạch đăng ký hằng năm của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tài chính “năm sau cao hơn năm trước” nên chưa tạo áp lực mạnh cho người quản lý doanh nghiệp nhà nước phải nâng cao trách nhiệm sử dụng hiệu quả vốn nhà nước. Về công khai thông tin, việc tổ chức thực hiện pháp luật về công bố thông tin còn hạn chế, mang tính hình thức, kể cả về nội dung thông tin công bố, phương tiện công bố và cơ chế kiểm soát, kiểm chứng chất lượng thông tin. Về kiểm tra, giám sát nội bộ doanh nghiệp nhà nước nặng về hình thức, chưa hiệu quả do thiếu tách bạch giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản trị còn chậm và yếu. Cho đến nay, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới.

Mục tiêu đầu tư và mục tiêu hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng, ảnh hưởng không tốt đến thực hành quản trị doanh nghiệp nhà nước theo thông lệ chung, nhất là trong việc thực hiện cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, người quản lý doanh nghiệp và người đại diện vốn nhà nước. Việc duy trì quá nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước là rào cản để chủ sở hữu nhà nước áp dụng các thông lệ tốt về quản trị doanh nghiệp. Chủ sở hữu nhà nước còn quyết định nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực quản trị kinh doanh của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Trách nhiệm giải trình của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa rõ ràng. Thực thi cơ chế cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế so với yêu cầu của đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập. Hiệu quả thực thi cơ chế bảo vệ cổ đông nhỏ và các bên có lợi ích liên quan còn thấp. Thực hiện quy định pháp luật về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước còn yếu. Nhiều cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa thực hiện trách nhiệm công bố thông tin theo quy định. Về chế độ kiểm toán, hiện nay, pháp luật chưa quy định rõ và bắt buộc tất cả các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài chính năm. Một số nội dung liên quan đến cơ chế hoạt động của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị có nhiều điểm khác biệt so với thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp nhà nước. Trách nhiệm pháp lý của từng cá nhân thành viên hội đồng thành viên, thành viên hội đồng quản trị do Nhà nước đề cử chưa được quy định rõ ràng.

Việc thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thời gian qua mới chỉ tập trung vào việc sắp xếp các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, tập đoàn kinh tế theo hướng thu gọn số lượng doanh nghiệp nhà nước (cổ phần hóa, bán vốn nhà nước tại doanh nghiệp), chưa chú trọng đến các định hướng, giải pháp có tính đột phá về khoa học - công nghệ, nhân lực chất lượng cao và một chiến lược kinh doanh dài hạn có tính khả thi cao; việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của nhà nước với chức năng quản lý nhà nước, trên thực tế còn chậm. Kể từ khi Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) đi vào hoạt động và thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu tại 19 tập đoàn, tổng công ty lớn, Ủy ban mới chủ yếu thực hiện công tác tiếp nhận và xử lý các công việc chuyển tiếp; chưa thật sự phát huy vai trò trong việc đưa ra định hướng sản xuất, kinh doanh, hình thức quản lý đối với các doanh nghiệp được chuyển giao…

Một số giải pháp nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước

Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và phẩm chất đạo đức của cán bộ, tạo lập môi trường quản trị doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả”(10); với mục tiêu đến năm 2030: Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần; trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt…

Để tiếp tục phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp:

Về hoàn thiện khuôn khổ thể chế: Cần rà soát, sửa đổi đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, như Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Đấu thầu... Hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước tiệm cận với thông lệ quốc tế theo định hướng và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2018 để nâng cao năng lực quản trị công ty tại doanh nghiệp nhà nước thay vì tập trung vào quản lý vốn nhà nước như hiện nay.

Xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và phẩm chất đạo đức của cán bộ, tạo lập môi trường quản trị doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả.

Ban hành cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước mạnh dạn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, theo kịp tốc độ phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ trên nguyên tắc hiệu quả; thích ứng với sự thay đổi mô hình kinh doanh xu thế phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần hoàn thiện chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp, làm cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước thuộc CMSC triển khai thực hiện. Tổng kết, đánh giá và đề xuất mô hình hoạt động hiệu quả của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng và ban hành hệ thống các quy chế nội bộ nhằm tạo ra một cơ chế quản trị thống nhất và xuyên suốt để kiểm soát, giám sát hoạt động của doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả, góp phần bảo đảm lợi ích của cổ đông và sự hài hòa với lợi ích của các bên liên quan (cổ đông, khách hàng, người lao động và cộng đồng).

Cần có khung pháp lý riêng cho hoạt động thanh tra doanh nghiệp; có thể là một chương trong Luật Thanh tra sửa đổi để giảm gánh nặng thanh tra cho doanh nghiệp; xác định rõ quan hệ giữa quy định của Luật này với quy định về thanh tra chuyên ngành trong các văn bản luật khác, bảo đảm tuân thủ theo nguyên tắc chung. Nghiên cứu và ban hành khung pháp lý về chuyển đổi số để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ hơn trong việc ứng dụng công nghệ vào quản trị tài chính, hướng tới chuẩn hóa hoạt động theo quy chuẩn quốc tế.

Về các vấn đề liên quan đến sở hữu của Nhà nước: Cần quy định rõ mục tiêu, lý do Nhà nước phải sở hữu các doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một bộ chuẩn mực cao, áp dụng chung về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các lý do liên quan đến sở hữu của Nhà nước. Các mục tiêu đó cần mang tính ổn định, dài hạn, được rà soát, đánh giá và điều chỉnh theo giai đoạn. Xem xét, nghiên cứu và vận dụng Hướng dẫn về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước của OECD trong việc xây dựng một bộ Quy tắc quản trị doanh nghiệp quốc gia - như một chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp áp dụng chung cho các doanh nghiệp, trong đó có các tiêu chí đánh giá năng lực quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp có vốn nhà nước, quy định rõ mức độ tuân thủ và giải trình đối với các tiêu chí liên quan đến lợi ích xã hội và bảo đảm công khai, minh bạch, đối xử công bằng, cơ chế rõ ràng trong việc bù đắp chi phí cho doanh nghiệp khi thực hiện các mục tiêu công. Triển khai hoạt động của cơ quan quản lý vốn nhà nước để bảo đảm thực hiện tốt “Nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu”. Thành lập tổ chức quản lý cấp quốc gia về quản trị doanh nghiệp để chỉ đạo và định hướng công tác quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị doanh nghiệp nhà nước nói riêng một cách có hiệu quả.

Về một số vấn đề khác, như phân công, phân nhiệm: Cần phân định rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; tách chức năng của quản lý chủ sở hữu với quản trị và điều hành của doanh nghiệp. Điều hành doanh nghiệp nhà nước cần tôn trọng quản trị của doanh nghiệp. Những người đại diện vốn được bầu vào điều hành doanh nghiệp là những người có trình độ chuyên môn, chuyên nghiệp, am hiểu ngành, nghề; về kiểm tra, giám sát: Cần số hóa các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ là một giải pháp rất hiệu quả để công khai, minh bạch cũng như để đánh giá, phân tích, dự báo sớm, giám sát, kiểm tra, cảnh báo đối với doanh nghiệp. Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ cần được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường. Mọi tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước cần được được định giá thị trường. Thời gian tới, cần nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước bởi các quy định quản lý doanh nghiệp nhà nước hiện nay nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, vừa thiếu, không đồng bộ, kém khả thi.

Nâng cao hiệu quả giám sát tuân thủ quản trị của các doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng cần chủ động, thường xuyên rà soát các quy định về quản trị nhằm nâng cao hiệu quả giám sát việc tuân thủ các quy định về quản trị. Bên cạnh đó, cần sớm đưa vào triển khai áp dụng các chế tài cụ thể đối với các doanh nghiệp chưa thực hiện hoặc chưa xây dựng lộ trình thực hiện theo các chuẩn mực quản trị tốt, từ đó bảo đảm tính hiệu lực của quy định trên thực tế, đồng thời tạo động lực để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cán bộ quản trị.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để học hỏi những kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp hiện đại, hiệu quả của thế giới thông qua những hướng dẫn của OECD về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề áp dụng công nghệ trong quản trị doanh nghiệp nhà nước cũng cần được được chú trọng hơn do công nghệ đi trước sẽ quản trị được rủi ro và phòng ngừa được sai sót…/.

Theo: Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước (Tạp chí Tài chính | tapchitaichinh.vn) 


GIỚI THIỆU
Tầm nhìn
Trở thành nhà đầu tư của Chính phủ, tổ chức tài chính nhà nước hàng đầu ở Việt Nam,một trong những đầu mối thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp theo phân công, phân cấp.
Sứ mệnh
Giá trị theo đuổi
LIÊN KẾT WEBSITE
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Địa chỉ: Tầng 23-24 Tòa nhà Charmvit, 117 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội Giấy phép: 338/GP-BC ngày 10/11/2006 Website: www.scic.vn